Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh đồng chí Võ Chí Công, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước (7-8-1912 - 7-8-2012)
Cập nhật lúc: 07/08/2012 567
Cập nhật lúc: 07/08/2012 567
CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP ĐỒNG CHÍ VÕ CHÍ CÔNG
Đồng chí Võ Chí Công tên thật là Võ Toàn, sinh ngày 7/8 /1912, tại thôn Khương Mỹ, xã Tam Xuân I, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam, là một trong những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Sinh trưởng trong một gia đình nhà nho, từ nhỏ đồng chí Võ Chí Công được giáo dục về tinh thần dân tộc, yêu nước tiêu biểu là ảnh hưởng của nhiều chí sĩ xứ Quảng như Hoàng Diệu, Trần Quý Cáp, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng... Sớm giác ngộ cách mạng, hoạt động phong trào thanh niên từ năm 1930 đến 1935 được kết nạp vào Ðảng Cộng sản Ðông Dương nay là Ðảng Cộng sản Việt Nam..
Năm 1936 đồng chí được cử làm Bí thư chi bộ ghép một số xã thuộc huyện Tam Kỳ.
Tháng 8 năm 1939, làm Bí thư huyện ủy Tam kỳ, Quảng Nam
Tháng 3 năm 1940, làm Bí thư Tỉnh ủy lâm thời Quảng Nam.
Tháng 10 năm 1941, đồng chí được cử vào Xứ ủy Trung Kỳ vừa được tái lập, được phân công phụ trách các tỉnh từ Đà Nẵng đến Phú Yên.
Đầu năm 1942, đồng chí được phân công vào gây dựng cơ sở tại các tỉnh vùng Nam Trung bộ và được điều giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam lần thứ 2. Tháng 8 năm 1942, đồng chí được bầu làm Bí thư của Đảng bộ Quảng Nam mới do sự hợp nhất 3 Đảng bộ Liên tỉnh Thành ủy Quảng Nam - Hội An - Đà Nẵng
Tháng 10 năm 1943, đồng chí bị chính quyền thực dân Pháp bắt giam và bị kết án tù chung thân, sau đó giảm xuống 25 năm tù giam ở Nhà lao Hội An, sau đó bị chuyển lên ở nhà đày Buôn Ma Thuột.
Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp tại Đông Dương cùng với một số chí sĩ cách mạng khác đồng chí được trả tự do trở về Quảng Nam và được phân công vào Ban Cứu quốc của Tỉnh bộ Việt Minh Quảng Nam, làm Trưởng ban khởi nghĩa, chuẩn bị cướp chính quyền ở Quảng Nam.
Cách mạng Tháng Tám thành công, đồng chí được cử làm ủy viên Ủy ban nhân dân Cách mạng lâm thời tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng; Chính trị viên Trung đoàn 93. Đầu năm 1946, đồng chí làm Phó ban Tổ chức cán bộ và Thanh tra Quân khu V.
Năm 1951, đồng chí làm Bí thư Ban cán sự Đông - Bắc Miên (Căm pu chia), Khu ủy viên Liên khu V. Tháng 3 năm 1952, được cử làm Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng lần thứ 3.
Đầu năm 1954, đồng chí dẫn một đoàn cán bộ lãnh đạo Liên khu 5 ra Bắc học tập sau đó được phân công làm Đoàn ủy viên cải cách ruộng đất ở Việt Bắc.
Sau Hiệp định Genève năm 1954, đồng chí được phân công trở lại Khu V, hoạt động bí mật và giữ chức Phó Bí thư Khu ủy. Năm 1960, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, đồng chí được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Khu ủy Khu V.
Ngày 23/01/1961, Trung ương Cục miền Nam được thành lập, đồng chí được phân công làm Phó bí thư Trung ương Cục;
Năm 1962 sau khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập, đồng chí được bầu làm Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương, đại diện của Đảng tại Mặt trận;
Năm 1964, đồng chí được bổ nhiệm làm Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam, Bí thư Khu ủy Khu V, Chính ủy Quân khu V. Năm 1975, đồng chí được cử làm Phó ban Đại diện Trung ương Đảng và Chính phủ ở miền Nam.
Sau khi đất nước thống nhất, đồng chí trúng cử đại biểu Quốc hội khoá VI, và giữ chức Phó Thủ tướng Chính phủ.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV năm 1976 đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và ủy viên Bộ Chính trị, giữ chức Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Trưởng ban Cải tạo nông nghiệp miền Nam.
Năm 1981, trúng cử Đại biểu Quốc hội khoá 7, được cử làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V (3/1982) được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được bầu vào Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, được phân công làm Thường trực Ban Bí thư.
Tháng 6 năm 1986, đồng chí được phân công giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986), được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị.
Từ tháng 4 năm 1987 đến năm 1991 trúng cử đại biểu Quốc hội khoá 8 và được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng.
Từ tháng 6 /1991 đến tháng 12/ 1997 là Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Đồng chí qua đời ngày 8/9/2011 tại thành phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 100 tuổi.
Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của mình, đồng chí đã trải qua nhiều cương vị lãnh đạo của Ðảng và Nhà nước. Dù bị địch bắt, tra tấn, tù đày, nhưng đồng chí không sờn lòng, quyết theo Ðảng, theo cách mạng đến cùng. đồng chí là mẫu người tiêu biểu "Sống hết lòng vì Ðảng, vì dân, có phẩm chất đạo đức cách mạng cao đẹp của người cộng sản, cống hiến trọn đời cho Tổ quốc”, mãi mãi là tấm gương sáng cho các thế hệ trẻ noi theo.
Với những đóng góp của mình, đồng chi đã được Nhà nước Việt Nam trao tặng Huân chương Sao vàng năm 1992, Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng và nhiều Huân chương, Huy chương cao quí khác ./.
Hôm nay:
Hôm qua:
Trong tuần:
Tất cả: